Phạm Duy - Tiểu Sử Tự Viết - III) TRƯỚC VÀ SAU HIỆP ĐỊNH GENEVE
- Details
- Written by Phạm Duy
- Hits: 35284
Article Index
Page 4 of 6
III) TRƯỚC VÀ SAU HIỆP ĐỊNH GENEVE
Vào lúc nước Việt Nam sắp bị chia đôi, di chuyển gia đình vào sinh sống ở Saigon, sau khi kiểm điểm quá khứ, tôi thấy :
Về phần hình thức, để đề cao dân tộc tính trong âm nhạc, tôi đã tìm ra một phong cách riêng là dân ca mới. Tôi đã không chạy theo nhạc cổ điển hay nhạc tân kỳ Âu Mỹ dù rằng tôi vẫn còn dùng phong cách quốc tế trong một số nhạc phẩm của mình.
Về phần nội dung, tôi đã ghi lại được sự vinh quang trong chiến đấu và sự khổ nhục trong chiến tranh qua những sáng tác phản ánh lịch sử Việt Nam.
Bây giờ trong công việc phát triển âm nhạc về mặt nội dung, trước hoàn cảnh đất nước sắp và đã bị chia đôi, tôi muốn dùng âm nhạc để giữ vững tình đồng bào ruột thịt và tình đối với quê hương đất nước cho dù vào lúc đó, tôi đã nhìn thấy nước ta vừa ra thoát cảnh nô lệ của thực dân thì lâm vào cảnh có thể là chia rẽ và nội chiến...
1. Tình Tự Dân Tộc - Tình Ca Quê Hương
Đã viết ra phần nào sự vinh quang và khổ nhục của Việt Nam (grandeurs et servitudes) qua một số hành khúc và dân ca mới rồi, bây giờ tôi chuyển sang đề tài tình tự dân tộc.
Theo tôi tình giữa đồng bào ruột thịt phải đi đôi với tình quê hương đất nước cho nên tôi soạn : Tình Ca, Tình Hoài Hương, Bà Mẹ Quê (Bà Mẹ Chiến Sĩ), Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê, Thuyền Viễn Xứ (thơ Huyền Chi), Ngày Trở Về, Người Về, Tình Nghèo, Ðố Ai, Bình Dân Ði Học v.v...
Tình ca quê hương còn là những bài hát xưng tụng mùa Xuân trên đất nước và trong lòng người như : Hoa Xuân, Nụ Tầm Xuân, Xuân Thì, Xuân Nồng, Xuân Ca... với sự nối dài của nó là Tuổi Xuân, Đêm Xuân, Xuân Hiền, Trên Đồi Xuân, Tình Xuân, Mừng Xuân, Mùa Xuân Du Ca, Mùa Xuân Yêu Em (thơ Đỗ Quý Toàn) v.v...
Cũng cần nói thêm là trong loại tình ca về mùa màng ở quê hương, ngoài tình ca mùa Xuân, tôi còn soạn tình ca mùa Hè như Hạ Hồng, Gió Thoảng Đêm Hè, Ngày Tháng Hạ v.v... và soạn tình ca mùa Thu như Tiếng Thu (thơ Lưu Trọng Lư), Thu Chiến Trường, Tơ Tình, Nước Mắt Mùa Thu, Tình Thu v.v... Những ca khúc này không nhất thiết phải nặng tính chất dân ca mà có thể mang phong cách ca khúc quốc tế.
Riêng về tình ca mùa Đông thì hình như tôi không có một bài nào cả !
Ban Thăng Long
2. Trường Ca
Đã đưa ra hình thức đoản khúc dân ca với những bài soạn ra trong và sau kháng chiến, bây giờ nếu tôi muốn phóng đại hình thức này lên thì tôi phải đi học cách phát triển âm giai và tiết điệu quốc tế. Tôi bỏ ra gần hai năm (1954-55) để qua Pháp, tham dự những buổi giảng về Sự Thành Hình và Biến Hình của Ngũ Cung tại Viện Nhạc Học Paris và học nhạc sử quốc tế với giáo sư Robert Lopez.
Tôi khởi sự soạn trường ca Con Đường Cái Quan ngay từ lúc này.
Về nội dung, Trường ca Con Đường Cái Quan là sự phản ứng mãnh liệt của tôi trước việc nước ta bị chia đôi. Đó cũng là những bài hát ngắn gom góp lại thành một bài hát dài nói lên tình tự dân tộc, tình ca quê hương, xưng tụng đất nước, lịch sử và con người Việt Nam trong một giai đoạn mà vì thời sự nên đất nước phải chia đôi khiến cho lòng người có thể cũng bị chia rẽ.
Tiếp theo đó, Mẹ Việt Nam (ra đời sau loạt 10 bài tâm ca mang tính chất phê bình xã hội) cũng là bản truờng ca của tình tự dân tộc, tình ca quê hương, kêu gọi đàn con Việt yêu thương nhau dù đang phải sống một thời kỳ rất nhiều nhiễu nhương.
3. Tâm Ca
Biến cố 11-63 (đánh đổ chế độ Ngô Đình Diệm) ở miền Nam kéo theo nhiều xáo trộn. Về mặt chính trị, thường xuyên có những vụ đảo chính, chỉnh lý, xuống đường. Về mặt quân sự, sự có mặt của Quân Đội ngoại quốc trên đất nước khiến cho chiến tranh khởi sự leo thang dữ dội. Về mặt xã hội là cả một sự đổ vỡ về luân lý, sự mất niềm tin. Tôi gọi thời kỳ này là thời kỳ sợ hãi, hoài nghi và khinh thị (le temps de la peur, du soupcon et du mépris). Thời kỳ thần đồng gẫy cánh, cõi tiên lạc lõng, nhạc trời đứt đoạn. Và tâm ca bắt buộc phải ra đời.
Với cái đà soạn những tác phẩm lớn hơn hình thức ca khúc thông thường là hai trường ca Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam (chưa kể hai tiểu ca kịch CHỨC NỮ VỀ TRỜI và TẤM CÁM với phần libretto của Năm Châu do tôi thực hiện cho Hãng Phim MỸ VÂN vào năm 1963), bây giờ tôi quyết định tỏ thái độ bằng những chương khúc (nghĩa là một bài hát dài có chung một đề tài nhưng với nhiều chương mục khác nhau).
Mười bài Tâm Ca, với những tựa đề như Tôi Ước Mơ, Tiếng Hát To, Ngồi Gần Nhau, Giọt Mưa Trên Lá , Ðể Lại Cho Em, Một Cành Củi Khô, Kẻ Thù Ta, Ru Người Hấp Hối, Tôi Bảo Tôi Mãi Mà Tôi Không Nghe, Hát Với Tôi... đã cất lên tiếng nói lương tâm của con người đối mặt cùng sự thật và nhận diện lại mọi thứ trong đời.
- Tâm Ca số 1 (Tôi Ước Mơ) nhận diện cái bi đát của xã hội trong giai đoạn ấy.
- Tâm Ca số 2 (Tiếng Hát To) là thái độ của tác giả trước sự bi đát đó.
- Tâm Ca số 3 (Ngồi Gần Nhau) nhận diện lại dân tộc.
- Tâm Ca số 4 và số 6 (Giọt Mưa Trên Lá, Một Cành Củi Khô) nhận diện lại thiên nhiên, siêu nhiên, đời sống con người khi được (hay bị) đặt vào cái thiên nhiên đó và trái tim của nó hướng về những điều siêu nhiên kia.
- Tâm Ca số 5 (Ðể Lại Cho Em) nhận diện lại gia tài của người đi trước để lại cho người đi sau.
- Tâm Ca số 7 (Kẻ Thù Ta) nhận diện kẻ thù.
- Tâm Ca số 8 (Ru Người Hấp Hối) nhận diện cái chết.
- Tâm Ca số 9 (Tôi Bảo Tôi Mãi Mà Tôi Không Nghe) nhận diện chính mình.
- Và Tâm Ca số 10, một tuyên ngôn, trình bày lại thái độ (và lời mời gọi) của tác giả sau khi ta đã có cơ hội nhận diện lại mọi sự trong đời như thế.
Tâm Ca đươc kéo dài với một số bài ca phê bình xã hội mà tôi gọi là Tâm Phẫn Ca : Tôi Không Phải Là Gỗ Đá, Người Lính Trẻ, Bà Mẹ Phù Sa... Một số nhà thơ trẻ chịu ảnh hưởng tâm ca đã cho tôi những bài thơ để tôi phổ nhạc như Nhân Danh, Chuyện Hai Người Lính (theo thơ Tâm Hằng), Bi Hài Kịch (theo thơ Thái Luân), Ði Vào Quê Hương (theo thơ Hoa Ðất Nắng)...
4. Hát Vào Cuộc Đời Trước Mặt
Với tâm phẫn ca, tôi đưa ra những lời phản kháng: Vạch mặt bọn cường đạo quốc tế đạo diễn vở Bi Hài Kịch. Phẫn nộ trước trò Nhân Danh chủ nghĩa, hoà bình, nhân loại để giết lẫn nhau. Mỉa mai trong Chuyện Hai Người Lính. Thở dài với chuyện Bà Mẹ Phù Sa. Thét lên rồi phát điên vì Tôi Không Phải Là Gỗ Đá. Cuối cùng tuyên bố Trời Phật Thánh Thần đều bất lực trước cái chết của Người Lính Trẻ...
Những tiếng nói thật về thân phận người lính Việt Nam như vậy cũng có những người khác nói lên, nhất là những thanh niên đang phục vụ trong Quân Đội. Một bài thơ nhan đề Trả Lời Một Câu Hỏi của một người lính chiến tên là Linh Phương, đăng trong góc nhỏ của một tờ báo hằng ngày được tôi thêm lời, thêm ý để thành bài Kỷ Vật Cho Em.
Ngoài những bài phản đối chiến tranh một cách trực tiếp như vậy, còn có những bài thơ phản đối chiến tranh một cách gián tiếp. Đó là những bài thơ mong ước hoà bình mà bài Khi Tôi Về của Kim Tuấn -- một sĩ quan trong Quân Lực -- do tôi phổ nhạc vào 1968 là một ví dụ. Đây cũng là lời lẽ của một người lính Việt Nam chứ không phải lời lẽ của một ngưòi dân thường.
Một nhà thơ trẻ, Ngô Đình Vận, viết ra những bài thơ cho quê hương mà anh gọi là tồi tệ để đưa cho tôi phổ nhạc như Tình Khúc Trên Chiến Trường Tồi Tệ, Thầm Gọi Tên Nhau Trên Chiến Trường Tồi Tệ. Nhà thơ nữ Lê Thị Ý viết Tưởng Như Còn Người Yêu để tôi in ra một tập nhạc gọi là Thương Ca Chiến Trường.
Tóm tắt lại, trong khoảng thời gian trước và sau vụ Tết Mậu Thân, nghĩa là từ 1966 cho tới 1969, tôi sống trong buồn vui lẫn lộn với những bài hát nói thật như tâm ca, tâm phẫn ca, với những ca khúc vui tươi cho Phong Trào Du Ca... Hơn nữa tôi cũng đã khởi sự sàm sỡ và văng tục ra với một vài bài vỉa hè ca và tục ca rồi ! Tôi không chỉ soạn ra một loại ca mà thôi, hoặc chỉ đả phá, hoặc chỉ xưng tụng, hoặc chỉ phản chiến, hoặc chỉ hiếu chiến. Tôi không muốn chỉ có một thái độ riêng biệt nào đối với một vấn đề đặc biệt nào cả. Tôi chấp nhận hết! Tôi muốn sống trọn vẹn cho cuộc đời trước mặt...
... Nhất là sau khi tôi đi vòng quanh thế giới vào năm 1966 và thấy đâu đâu cũng có khẩu hiệu Make Love Not War, tôi bèn soạn một bài hát chấp nhận cuộc đời nhan đề Một Ngày Một Đời.
5. Hoan Ca
1972, hoà bình có vẻ ló dạng với Hoà Hội Paris. Trong lòng thấy có điều gì vui, tôi muốn nói lên sự hoan hỉ đó qua những bài tôi gọi chung là Hoan Ca (songs of joy) gồm 10 bài bình ca, 10 bài bé ca và 10 bài nữ ca.
Bình Ca
Tuy nhiên, 10 bài bình ca cũng không hẳn là những bài hát nói tới hoà bình trên đất nước. Nó chỉ muốn nói đến hoà bình trong lòng người mà thôi ! Trong bình ca, không phải vì lý do có ký kết hoà bình mà nói tới chuyện tương lai, với sự trùng tu xứ xở, xây lại nhà máy, cầu cống v.v... Nó nói nhiều tới chuyện lấy lại sự bình thường, bình dị của dân tộc ta, bị mất đi sau mấy chục năm chiến tranh. Trong bình ca người nghe chỉ thấy giọng tráng sĩ hành, giọng sĩ khí, giọng hoài cổ mà thôi ! Tuy nhiên nó cũng không thiếu ngôn ngữ của thời đại và nhạc ngữ của nó thì hoàn toàn theo phong cách nhạc trẻ.
Bình Ca Một còn có vẻ hippy là khác. Bình ca số 2, Sống Sót Trở Về được viết ra với ngôn ngữ tráng sĩ hành. Bình ca số 3 Dường Như Là Hoà Bình là bài có nhiều tính chất nhạc trẻ nhất. Bình ca số 4 nhan đề Xin Tình Yêu Giáng Sinh là một bài thơ của Trụ Vũ do tôi phổ nhạc. Bình ca số 5 Xuân Hiền rất là cổ kính, dùng nhiều danh từ như Xuân Phong, Xuân Tiêu, Xuân Miên... để nói tới gió Xuân, tới ánh sáng mùa Xuân, tới giấc ngủ và giấc mộng đêm Xuân. Hình ảnh trong bài này mà tôi thích nhất là : khoanh tay ra bờ giếng gọi tên Trời Ðất. Bình ca số 6 Ru Mẹ là lời con ru mẹ, không phải mẹ ru con. Bình ca số 7 Lời Chào Bình Yên phát triển hình ảnh khoanh tay gọi tên Trời Ðất. Bình ca số 8 Giã Từ Ác Mộng nói tới chuyện tìm lại được thiên đàng hạ giới. Bình ca số 9 Chúa Hoà Bình muốn được nhìn Chúa Giê Su như một con người của hoà bình. Bình ca số 10 Ngày Sẽ Tới soạn từ lâu, nay được dùng để kết thúc 10 Bài Bình Ca.
Bé Ca
Trong mấy chục năm qua, kể từ khi có Tân Nhạc cho tới lúc bấy giờ là năm 1972, soạn đủ mọi loại ca, nhưng tôi chỉ có hai bài hát nhi đồng là Em Bé Quê và Một Ðàn Chim Nhỏ mà thôi ! Bây giờ tôi muốn, trước hết phục hồi loại đồng dao cổ mà tôi cho là những bài thơ hay bài hát trong sáng nhất của thi ca bình dân Việt Nam. Tiếc thay, với sự xâm chiếm nước ta của thực dân Pháp và với sự áp đảo của văn hoá Âu Tây, cho tới đầu thế kỷ 20 này, đồng dao ở Việt Nam đã chết ! Không có một câu đồng dao mới nào được soạn ra để hát lên, dù Trương Tửu đã viết cuốn KINH THI VIỆT NAM. Nay tôi muốn đồng dao sống dậy, với âm điệu mới và nhịp điệu mới. Tôi còn muốn cho nó có thêm ý nghĩa mới, phù hợp với cuộc sống hôm nay nữa.
Tôi soạn Ông Trăng Xuống Chơi để cho các em bé Việt Nam một bài học về sự vật (lecon des choses). Người xưa dạy cho trẻ thơ biết rằng cây cau có mo, học trò có bút, ông bụt có chùa, nhà vua phải có lính v.v... Vì ông trăng đẹp quá nên ai cũng muốn tặng quà mỗi khi ông trăng xuống chơi trần thế. Luân lý của bài Ông Trăng Xuống Chơi là : ông ở trên trời, từ phía Ðông ông xuống chơi với chúng ta trong một đêm, rồi ông đi khuất về phiá Tây. Ông Trăng đẹp quá nên quyến rũ luôn cả những tình nhân nữa, khiến cho gái đẹp sẵn sàng cho chồng, đàn ông sẵn sàng cho vợ. Nhưng ông Trăng cũng không nhận luôn cả chuyện cho vợ cho chồng này. Ông trăng trả lại hết, trả lưỡi cho cần câu, trả tầu cho con ngựa, trả nhựa cho cây sung. Cuối cùng trả lính cho nhà Vua, trả chùa cho ông bụt, trả bút cho học trò, trả mo cho cây cau... ông trăng đi mất !
Bài Chú Bé Bắt Được Con Công là bài học về những con người quen thuộc trong gia đình. Chú bé ở trong bài đồng dao này, rõ ràng là có ông bà, có anh chị và có chú thím để làm công việc đổi chác. Trong gia đình nó, ai cũng thích con công mà nó vừa bắt được cho nên đem gà, chim tu hú, quả thị hay buồng cau ra để đổi lấy con công. Chú bé đồng ý, cho tới khi vì cái chuyện đổi chác mà gây ra đổ máu giữa chú và cô thì nó nghe lời của mợ, đòi lại con công, không đổi chác nữa!
Với bài Thằng Bờm Có Cái Quạt Mo, thì lần này tôi muốn đổi tên nó là Thằng Bợm (dấu nặng) Theo tôi, Thằng Bợm sẽ không dại như Thằng Bờm khi xưa, chỉ đổi cái quạt mo lấy một nắm sôi nhỏ của Phú Ông, trong khi Phú Ông sẵn sàng cho nó đổi lấy năm con bò, chín con trâu, một sâu cá mè, một bè gỗ lim, thêm cả một con chim đồi mồi. Trong kết luận của câu đồng dao cổ, hình như ai cũng khen là Thằng Bờm thực tế, chỉ cần có nắm sôi ăn cho no bụng chứ không cần sự giầu sang của Phú Ông. Tôi thì cho là Phú Ông bóc lột Thằng Bờm. Lần này gập phải Thằng Bợm thì nó sẽ ôm tất cả mọi thứ của Phú Ông và cùng với chiếc quạt mo của nó, nó chạy luôn một mạch khiến cho Phú Ông chỉ còn có cách đứng kêu Trời...
Bé ca sẽ đi tới những bài hát, tuy không khởi sự từ đồng dao nhưng nó vẫn nằm trong thế giới trẻ em như bài Bé Bắt Dế chẳng hạn. Nhưng ở đây, nó là một hát ám chỉ về thời cuộc nước ta của trong cảnh chiến tranh, dựa vào việc trẻ con Việt Nam thường hay đào lỗ bắt dế rồi đem về cùng nhau chơi trò chọi dế. Con dế nói rằng: ''Tôi là ca sĩ chứ không phải là võ sĩ ! Ðể tôi hát, đừng bắt tôi phải đánh nhau''!
Bé ca thời nay tả thực hơn là mang những ẩn ngữ của đồng dao khi xưa. Nó muốn kết chặt thân tình anh em, như trong bài Đưa Bé Đến Trường, Luân lý của bài này nằm trong câu hát chót :
Mai mốt em thành người trong xã hội
Chức lớn sang giầu, nổi danh khắp nơi
Em có đi chơi bằng xe hơi mới
Xin chớ cán xe đạp của anh, bé ơi !
Bé ca Đốt Lá Trên Sân cũng nằm trong không khí nối liền vực sâu thế hệ - gap generation.
Bài Bé Cây Đàn Ngôi Nhà Xanh Đồi Cỏ là một câu chuyện hơi dài, được chia ra nhiều đoạn hát với nhiều tiết tấu. Nó kể chuyện ''... tôi đang đi trong một sáng mùa Xuân có nắng tươi hồng, thì thấy một em bé đang đứng ôm cây đàn bên ngôi nhà trên đồi xanh biếc... Tôi leo lên đồi và bé bắt tôi đánh đàn cho bé nghe. Ðánh đàn xong, bước xuống đồi nhìn lên, tôi bỗng thấy bé rất là lẻ loi... ''
Bài Trong Tiếng Đàn Của Anh Trong Tiếng Cười Của Em là sự bổ xung cho bài Bé Cây Đàn Ngôi Nhà Xanh Đồi Cỏ. Kể từ khi tôi hay nói tới tiếng đàn trong những bài hát đầu đời cho tới nay -- nghĩa là mấy chục năm sau -- tôi mới lại có dịp nói tới tiếng đàn trong những bé ca.
Từ 1973 bước qua 1975, trong phạm vi bé ca, tôi đi từ đồng dao cổ phục hồi tới những bài nối liền hai thế hệ thiếu niên và thanh niên. Tôi cũng đưa bé ca lên hình thức nhạc kể truyện, nhạc thần tiên nên soạn ra những bài có nhiều đoạn khúc. Trong năm 75, tôi còn soạn được hai bài bé ca nữa. Bài Con Ốc Sên Và Hòn Ðá Cuội thì tôi đã quên, chỉ còn nhớ bài Một Con Chim Nhỏ Trên Cành Yêu Thương. Bài này thành ra là một bài lớn ca mất rồi !
Nữ Ca
Nữ ca được soạn ra khi tôi bị lôi cuốn bởi những tờ báo dành riêng cho tuổi ô mai. Nhưng nó cũng được soạn ra để cho con gái yêu là Thái Hiền hát, giống như những bài Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Thà Là Giọt Mưa (thơ Nguyễn Tất Nhiên) được phổ nhạc để ''lăng xê'' Duy Quang, lúc đó mới bước vào nghề. Chính nhờ các con tôi đi theo phong trào nhạc trẻ, tự thành lập một ban nhạc lấy tên là The Dreamers mà tôi dùng phong cách nhạc trẻ để chuyên chở nhạc ngũ cung.
Nữ ca xưng tụng cái tuổi tuyệt vời của các em gái Việt Nam dù đang phải sống trong một thời đại nhiễu nhương. Đó là những bài : Tuổi Mộng Mơ, Tuổi Ngọc, Tuổi Hồng, Tuổi Thần Tiên, Tuổi Xuân, Tuổi Sợ Ma, Tuổi Vu Vơ, Tuổi Bâng Khuâng, Tuổi Biết Buồn (soạn chung với Ngọc Chánh) và Ngày Em Hai Mươi Tuổi...
6. Tình Khúc
Giữa bài tình khúc (hiểu một cách thông thường là dành cho nam nữ) đầu tiên của tôi : Cô Hái Mơ, soạn năm 1942 tới bài tình khúc cuối cùng : Chỉ Chừng Đó Thôi, soạn năm 1974, có nhiều bài mà tôi muốn đươc san định như sau :
TÌNH CA ẤP ÚNG
Cô Hái Mơ (theo thơ Nguyễn Bính), Cây Đàn Bỏ Quên, Khối Tình Trương Chi...
TÌNH CA HỌC TRÒ
Tôi Đang Mơ Giấc Mộng Dài, Ngày Xưa Hoàng Thị (theo thơ Phạm Thiên Thư), Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài, Con Đường Tình Ta Đi, Trả Lại Em Yêu...
TÌNH GIANG HỒ
Tình Kỹ Nữ, Tiếng Đàn Tôi, Bên Cầu Biên Giới...
TÌNH CA ĐÔI LỨA
Đêm Xuân, Thương Tình Ca, Tìm Nhau, Cho Nhau, Kiếp Nào Có Yêu Nhau (theo thơ Hoài Trinh), Ngày Đó Chúng Mình, Đừng Xa Nhau, Nếu Một Mai Em Sẽ Qua Đi, Mưa Rơi, Phượng Yêu, Đường Em Đi...
TÌNH CA MỘT MÌNH
Còn Gì Nữa Đâu, Nghìn Trùng Xa Cách, Nha Trang Ngày Về, Giết Người Trong Mộng, Mùa Thu Chết (theo thơ Apollinaire), Thu Ca Điệu Ru Đơn (theo thơ Verlaine)...
TÌNH QUÊ MÙA
Nụ Tầm Xuân, Thương Ai Nhớ Ai, Đố Ai, Bài Ca Sao, Bài Ca Trăng...
TÌNH NỒNG
Cỏ Hồng, Hạ Hồng, Ngày Tháng Hạ, Gió Thoảng Đêm Hè...
TÌNH XANH hay là TÌNH THU :
Tơ Tình hay Tình Ca Mùa Thu (Ph Duy) và (theo một số bài thơ của Cung Trầm Tưởng): Mùa Thu Paris, Kiếp Sau, Chiều Đông, Về Đây, Bên Ni Bên Nớ, Tiễn Em...
TÌNH RẤT TRẺ
(theo một số bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên) : Thà Là Giọt Mưa, Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Em Hiền Như Ma Soeur, Anh Vái Trời, Hãy Yêu Chàng, Hai Năm Tình Lận Đận...
TÌNH NHUỐM MẦU THIỀN
(theo một số bài thơ của Phạm Thiên Thư) : Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu, Em Lễ Chùa Này, Huyền Thoại Trên Một Vùng Biển...
TÌNH LỠ LÀNG
Tình Hờ, Yêu Tinh Tình Nữ, Ta Yêu Em Lầm Lỡ (theo thơ Đào Văn Trương), Những Cuộc Tình Tan Vỡ, Chỉ Chừng Đó Thôi, Yêu Là Chết Ở Trong Lòng, Nỗi Buồn Có Tên, Anh Yêu Em Vào Cõi Chết (theo thơ Nguyễn Long)...
TÌNH THI NHÂN
* (theo một số bài thơ của các thi nhân tiền chiến) : Ngậm Ngùi (Huy Cận), Mộ Khúc (Xuân Diệu), Tiếng Sáo Thiên Thai (Thế Lữ) Vần Thơ Sầu Rụng, Thú Đau Thương, Hoa Rụng Ven Sông, Tiếng Thu (Lưu Trọng Lư), Tỳ Bà (Bích Khê)...
* (theo một số bài thơ của các thi nhân đương thời) : Tâm Sự Gửi Về Đâu (Lê Minh Ngọc), Mùa Xuân Yêu Em (Đỗ Qúy Toàn), Đừng Bỏ Em Một Mình (Hoài Trinh), Con Qùy Lạy Chúa Trên Trời (theo thơ Nhất Tuấn), Ở Rừng U Minh Ta Không Thấy Em (Nguyễn Tiến Cung), Còn Chút Gì Để Nhớ (Vũ Hữu Định), Nụ Hôn Đầu (Trần Dạ Từ)...
CHUYỆN TÌNH
Cành Hoa Trắng, Hẹn Hò, Quán Bên Đường (theo thơ Bình Nguyên Lộc), Chuyện Tình Buồn (theo thơ Phạm Văn Bình)...
NHỤC TÌNH CA
Tình Tự Ca, Nhục Tình Ca, Đêm Hôm Đó, Người Tình Trong Cánh Tay, Tình Vẫn Rong Chơi...