PhamDuy.com - Trang web lưu giữ di sản âm nhạc Phạm Duy
  • pd showcase01 976x400
  • pd showcase02 1200x400
  • pd showcase03 1200x400
  • pd showcase04 1200x400
  • pd showcase05 1200x400
  • pd showcase06 1200x400
  • pd showcase08 1200x400
  • pd showcase09 1200x400
  • PD Paintings
  • 2003 1200x400

Tác Phẩm Tác Phẩm

Vài giờ trước khi về Việt Nam, Nhạc sĩ Phạm Duy: “Adieu Midway City...”

Chuyến máy bay lúc một giờ khuya ngày 16 Tháng Năm năm 2005 của hãng hàng không Eva đã đưa nhạc sĩ Phạm Duy lên đường về lại Việt Nam trong một chuyến đi, theo lời ông: "Ðã được chuẩn bị như một cuộc chạy nước rút mà hôm nay là ngày kết thúc." Người nhạc sĩ già lên đường "qui cố hương" trong một tâm trạng "bình thản."

"Bình thản, vì đây đâu phải là lần đầu tiên tôi bỏ hết mà ra đi." Nhạc sĩ Phạm Duy tâm sự. "Tôi đã ra đi nhiều lần. Từ Hà Nội vào kháng chiến. Từ kháng chiến vào thành phố, rồi vào Sài Gòn. Từ Sài Gòn, tôi lại bỏ hết đi sang Mỹ."

Sau một thời gian dài chuẩn bị, rồi sau nhiều lần phải thay đổi ngày về do tình trạng sức khỏe, nhạc sĩ Phạm Duy cuối cùng cũng đã lên đường cùng người con trai Phạm Duy Minh, về lại Sài Gòn. Tại Sài Gòn, ba người con của ông, Duy Cường, Duy Quang và Duy Ðức, sẽ ra đón ông tại phi trường Tân Sơn Nhất.

"Tôi sẽ ở tại Sài Gòn, vì đó là nơi tôi đã ra đi." Nhạc sĩ Phạm Duy cho biết. "Và tôi cũng sẽ đi chơi đây đó, sẽ ra thăm Hà Nội."

Read more ...

Thời Kỳ Mù Mịt - Từ thời thượng cổ đến thế kỷ X

Nhạc sử của Việt Nam thời xa xưa rất mù mờ, ta chỉ biết nhạc Việt thời cổ xưa là : nhạc trống đồng, nhạc gồng, nhạc đàn đá và nhạc đàn tre giây nứa.... mang tính chất nhạc tiền sử, nhạc bộ lạc (pre-historic, tribal music). Trong đời sống âm nhạc của người Mường hồi đầu thế kỷ 20, một số nhạc cụ cổ xưa còn được dùng đến, như trống đồng chẳng hạn :

trngdong
Trống đồng

Read more ...

Thời kỳ Thứ Nhất - Từ thế kỷ X tới thế kỷ XV

Ảnh hưởng của Ấn Ðộ và Trung Hoa thấy rõ trong nhạc Việt Nam thời xa xưa qua những tượng nhỏ của các nhạc công được chạm trên bệ các cột lớn của ngôi Chùa Phật Tích ở làng Vạn Phúc, tỉnh Bắc Ninh. Chùa này được xây cất vào thời Nhà Lý, khoảng thế kỷ XI...

cot1

cot2

Read more ...

Thời kỳ Thứ Nhì - Từ thế kỷ XV tới thế kỷ XVIII

Tới lúc này thì ta có sử liệu để biết rõ về việc hình thành Nhạc Việt từ thế kỷ 15 tới thế kỷ 18.

Vua Lý Thái Tông (1434-1442) truyền cho các quan Bộ Lễ là Nguyễn Trãi và Lương Ðăng thành lập nhạc triều đình (court music) theo kiểu nhà Minh bên Tầu. Nhạc Việt nằm trong các tổ chức của triều đình là : Ðồng Văn, Nhã Nhạc và Giáo Phường. Nhạc bản cũng như nhạc cụ thường là sao chép từ nhạc Trung Hoa rồi sẽ được Việt hoá đi.

Trong giới quyền quý thì có nhạc lễ nghi (ritual music), nhạc lễ bái (ceremonial music), nhạc vui chơi (music for entertainment) như Hát Cửa Quan, Hát Cửa Ðình (tiền thân của Hát Ả Ðào), nhạc phòng (chamber music) trong đó có Ca Huế và Hát Bội dành cho các vua, các quan.

bannhac
Ban Ðại Nhạc của triều Nguyễn để lại

Read more ...

Thời kỳ Thứ Ba - Từ thế kỷ XIX tới trước thế chiến II

Tới thời gian này, Nhạc Việt khởi sự suy vi, nhất là sau khi Pháp tới cai trị Việt Nam. Tất cả những giá trị văn hoá, văn nghệ của người xưa để lại không còn được coi trọng nữa. Nhạc quyền quý coi như đứng khựng lại.

Trong nhạc dân gian, vài ba loại ca kịch nhạc sẵn có như Tuồng, Chèo... nếu muốn sinh tồn thì phải cải biến đi. Tuồng Cổ trở thành Tuồng Cải Lương. Người thực hiện cuộc cải lương trong ngành Tuồng là Trần Phềnh.

Chèo Thôn Ổ trở thành Chèo Cải Lương hay Chèo Văn Minh. Nguyễn Ðình Nghị có thể coi là ngưỡi đã thay đổi làm sao cho chèo nông thôn phù hợp với khán thính giả trong thành phố.

Read more ...

Thời kỳ Thứ Tư - Từ 1945 tới nay

Trong thời gian này, dù nước Việt Nam lâm vào hoàn cảnh ly loạn rất là bi đát, đã có nhiều lúc và đã có nhiều người muốn phục hồi lại không nhiều thì ít các hình thức nhạc cổ truyền như Hát Chèo, Hát Bộ, Hát Hội và nhất là các loại dân ca địa phương. Hoặc giữ nguyên bài bản cũ hoặc cải biên đi cho phù hợp với thời đại. Nhạc cải cách sau khi trở thành Tân Nhạc càng ngày càng có vẻ theo xu hướng nhạc Âu Mỹ. Hãy còn quá sớm để định nghĩa Nhạc Việt đương thời.

Chúng tôi tạm đưa ra một sơ đồ về sự hình thành và phát triển của Nhạc Việt như sau :

bieudo

Phạm Duy
  

Liên Hệ Dân Ca - Ca Dao

Dân Ca Cổ

Dân Ca Cổ (Ancient folk songs) còn tồn tại, nghĩa là còn thấy có ít nhiều sinh hoạt trong đời sống Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ 20, gồm các loại hát như ru, lý, hò, ví, xẩm v.v... thường là những câu thơ truyền miệng (oral poetry) được hát lên với nhạc điệu và nhịp điệu khác nhau, tùy theo địa phương và công dụng của bài hát hoặc của loại hát. Dân ca cổ vẫn được coi là sáng tác tập thể của nhân dân, của vô danh, dù đã có thuyết cho rằng nó cũng phải bắt đầu từ một người nào đó, trong một thời đại nào đó, rồi vì có giá trị cho nên đã được lưu truyền bằng cửa miệng và trở thành gia tài của tập thể.

Dân Ca Mới

Dân Ca Mới (New folk songs) phát sinh vào giữa thập niên 40 sau khi nền nhạc mới, được gọi là nhạc cải cách (về sau gọi là tân nhạc) vừa ra đời và chịu ảnh hưởng của nhạc Âu Tây, rồi vì muốn cho tân nhạc có dân tộc tính cho nên một số nhà cải cách thời đó đã quay về nghiên cứu dân ca cổ để khởi sự từ cái vốn cũ, sáng tác những bản nhạc mà họ gọi là dân ca cải biên, dân ca phát triển, dân ca phục hồi hay dân ca mới.
Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau đi vào kho tàng của dân ca cổ để tìm hiểu gia tài quý báu đó, trước khi đi tới dân ca mới.

Read more ...

Nhạc Tính Dân Ca Cổ: Nhạc Ðiệu - Nhịp Ðiệu

Ca Dao, trước khi trở thành Dân Ca, được coi là thơ thuần túy, nằm trong lãnh vực thi văn, và được phổ biến trong dân chúng với lối đọc thông thường, chưa phải là "bình thơ" hay "ngâm thơ" gì cả. Tuy nhiên, vì tính chất đặc biệt của tiếng Việt và của một thể thơ được dùng nhiều trong ca dao là thể "lục bát", lối "đọc" ca dao, tuy chưa qua hẳn địa hạt âm nhạc như lối "hát", cũng đã có nhiều "nhạc tính" rồi. Ta hãy nói về phần nhạc điệu của tiếng Việt.

Nhạc điệu tiếng Việt : Âm và thanh

Tiếng Việt là tiếng đơn âm, nghĩa là mỗi tiếng chỉ có một "âm", nhưng mỗi âm lại có nhiều "thanh", tức là cách phát âm hoặc cao hoặc thấp, hoặc bổng hoặc trầm. Chữ quốc ngữ có 5 dấu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) và những chữ không có dấu (bằng) cho nên tiếng Việt, trên căn bản, có tới 6 thanh khác nhau. Các nhà ngôn ngữ học đã ghi ra bằng đồ bản (graphic) và đặt tên các thanh đó.

Ðồ Bản

ma
mạ
mả

Tên các thanh

Các thanh (Pháp ngữ) (Anh ngữ)
ma (bằng) haut-plain  no tone
mà (huyền) bas-plain falling-tone
mạ (nặng) bas-glottal low-constricted tone
mả (hỏi) bas mélodique falling-rising tone
má (sắc) haut-mélodique high-rising tone
mã (ngã) haut-glottal high-constricted-broken tone


Read more ...

Phân Loại Dân Ca Cổ

Trong một cuốn đặc khảo về dân nhạc Việt Nam được viết và in ra tại Saigon từ năm 1966, tôi đã dựa vào đời sống con người để phân loại dân ca.

Ngâm, Ru

Bởi vì dân ca gắn liền vào đời sống của người dân cho nên tôi phác họa ra những bước tiến của dân ca, khởi đầu bằng hai loại "ngâm" và "ru" là những loại ca dành cho từng cá nhân, hát một mình hay để ru cho con ngủ. Ðó là hình thức dân ca thô sơ nhất vì (như đã nói ở trên) chỉ dùng một giai điệu nào đó, chưa cần phải sáng tạo nhịp điệu cho câu "ngâm" hay câu "ru" ngoài việc hát theo vận tiết của thơ (phần nhiều là thơ lục bát).

Ngâm Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau...
vân vân...

Ru Con:
Cái ngủ mày ngủ y y y cho à lâu
Mẹ mày đi cấy ý y a ruộng sâu
Chưa à về ...

Read more ...

Hát Lý - Một Loại Ca Dễ Thương

Trong kho tàng dân ca cổ truyền, tôi thấy có một thể ca rất sinh động, hiện diện trong hầu hết các loại ca. Ðó là Hát Lý. Tôi rất yêu thể ca này và dành cho nó một bài viết.

Hát Lý trước hết là một câu (hay một bài) hát chơi của nhi đồng hay người lớn, không do bàn tay nghệ sĩ tạo nên mà chỉ là một hình thức nghệ thuật tự phát của dân chúng. Hát lý sau đó du nhập vào những tổ chức âm nhạc nhà nghề như Hát Chèo, Hát Ả Ðào, Hát Cải Lương, Hát Sắc Buà, Ca Huế, Hát Quan Họ, Hát Bộ, Hát Chầu Văn vv...và do đó mà có trình độ nghệ thuật cao hơn hình thức hát lý sơ khai.

Theo tôi, nếu như trong những thể hát khác trong dân ca Việt Nam có một số bài không thuần túy là ca dao được hát lên, thì hình thức hát lý hoàn toàn là những câu ca dao được phổ nhạc.

Trước hết, tôi xin đưa ra danh sách của trên 80 bài hát lý mà tôi đã sưu tập và nghiên cứu trong vòng ba, bốn chục năm qua để cả quyết nói rằng tất cả đều là những câu ca dao được hát lên. Ðó là : Lý Con Sáo Huế, Lý Hoài Xuân, Lý Con Chuột Huế, Lý Con Quạ Huế, Lý Tình Tang, Lý Mười Thương, Lý Con Sáo Bắc, Lý Con Sáo Quảng, Lý Con Sáo Gò Công, Lý Con Sáo Sang Sông, Lý Con Sáo Cải Lương, Lý Giao Duyên, Lý Chàng Ôi, Lý Bốn Mùa, Lý Ru Con, Lý Vọng Phu, Lý Cây Ða, Lý Ðò Ðưa, Lý Toan Tính, Lý Con Cò, Lý Cũ Rũ, Lý Mèo Lành, Lý Qua Ðèo, Lý Chiều Chiều, Lý Hoài Nam, Lý Cửa Quyền, Lý Cảnh Chùa, Lý Tử Vi, Lý Tiểu Khúc, Lý Ngũ Luân, Lý Nam Sang, Lý Giang Nam, Lý Thiên Thai, Lý Triền Triện, Lý Mọi, Lý Ðá Rừng, Lý Chuột Chê, Lý Khỉ Ðột, Lý Ba Cô, Lý Ngô Ðồng, Lý Lá Sen, Lý Cây Bông, Lý Ba Tri, Lý Lu Là, Lý Cây Ổi, Lý Cái Phảng, Lý Nuôi Ong, Lý Ngựa Ô Huế, Lý Ngựa Ô Nam, Lý Ngựa Tây, Lý Ðường Trơn, Lý Quay Tơ, Lý Ðươn (Ðan) Ðệm, Lý Bình Vôi, Lý Quạ Kêu, Lý Chuột Kêu, Lý Kéo Chài, Lý Che Hường, Lý Chim Khuyên, Lý Bánh Bò, Lý Con Cua, Lý Lạch, Lý Hành Vân, Lý Hoa Thơm, Lý Thương Nhau, Lý Mong Chồng, Lý Vẽ Rồng, Lý Bắt Bướm, Lý Cây Duối, Lý Ông Hương, Lý Con Nhái, Lý Con Mèo, Lý Dừa Tơ, Lý Chim Chuyền, Lý Mạ Non, Lý Bánh Canh, Lý Con Cá...

Read more ...