"Hè 42" - Tản mạn về "Nhạc Ngoại Lời Việt"
- Chi tiết
- Hiệp Dương (aka Học Trò)
- Lượt xem: 4168
...Hè đã tới rồi
Mùa hè cười vui
Cởi phăng áo đời
Hè đi phơi phới
Hè ru sóng nguôi
Nhẹ như ra khơi
Hè hâm nóng nơi
Nằm trên cát chơi
Hè ân ái ơi
Đó là một phần lời dịch sang tiếng Việt của nhạc sĩ Phạm Duy từ bài The Summer Knows của Michel Legrand. Tôi thích cả bài dịch này lắm, vì nó có cái gì đó rất mạnh bạo, quên sự đời, bất chấp hậu quả của cái tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu. "Cởi phăng", "phơi phới". Tôi thấy được một cách diễn tả khác về mùa hè của nhạc sĩ, cũng "bạo phổi" như hai bài nhạc hè khác của ông là "Hạ Hồng" và "Ngày Tháng Hạ".
Dạo gần đây tôi thích đọc những sách vở nói về cách viết lời cho một bài nhạc. Quả là có một thế giới khác, trong đó những kỹ thuật viết lời được phân tích, xắp xếp chặt chẽ thành những luật lệ hẳn hoi. Tiêu biểu nhất là một bộ sách ba quyển của bà Sheila Davis với các tựa đề: "Successful Lyric Writing", "The Craft of Lyric Writing", và "The Songwriters' Ideas Book." Cũng nhờ nhà sách Borders lâu lâu lại gửi một cái coupon 30% off mà tôi đã tậu được cả ba quyển.
Bài "The Summer Knows" như trên là một thí dụ thú vị về các cách viết lời khác nhau dựa trên cùng một giai điệu. Tìm hiểu kỹ thì ông Michel Legrand, nhà soạn nhạc tài ba của Pháp quốc không có khiếu viết lời cho nhạc của ông, do đó ông khôn ngoan tìm đến các người viết lời có hạng để viết lời cho nhạc của ông. Thập niên 60 và 70 ông rất nổi tiếng ở Mỹ với các nhạc phẩm bất hủ là "The Summer Knows", "I Will Wait For You", và "The Windmills of Your Mind", thắng nhiều Oscars và Grammy awards.
Hãy lần lượt xem lời Pháp và Anh:
C'était l'été 42
On hésitait
Encore un peu
Entre l'amour et l'amitié
Et puis un jour
Tout simplement tu t'es offerte
C'était l'été 42
J'avais quinze ans
Tu étais belle
Autour de nous c'était la guerre
Et moi dans tes bras
Je criais : je t'aime !
Dans mes bras
Tu pleurais : je t'aime
On avait peur
On était heureux
[x2:]
C'était l'été 42
J'avais quinze ans
Tu étais belle
C'était l'été de mon premier amour
***
The summer smiles, the summer knows,
and unashamed, she sheds her clothes.
The summer smoothes the restless sky,
And lovingly she warms the sand on which you lie.
The summer knows, the summer's wise,
she sees the doubts within your eyes,
And so she takes her summertime,
tells the moon to wait and the sun to linger,
Twist the world around her summer finger.
Lets you see the wonder of it all,
And if you learned your lesson well,
There's little more for her to tell,
One last caress, it's time to dress for fall.
***
Ta thấy nhạc lời Pháp thật hồn nhiên ngây thơ, khi nói đến một tình cảm ngại ngần giữa tình bạn và tình yêu, trong bối cảnh chiến tranh, cảnh tay trong tay, thật hạnh phúc mà cũng thật lo âu vì tình yêu quá mong manh. Bài hát kết thúc với một dấu ấn khó phai: một tình yêu đầu đời, anh còn quá trẻ (chỉ mới 15), em thì quá đẹp, mùa hè và tình yêu đầu tiên trong đời của chàng.
Nhạc lời Mỹ thì mạnh bạo hơn với những ẩn dụ táo bạo "and unashamed, she sheds her clothes" mà nhạc sĩ PD đã khéo léo dịch thành "Cởi phăng áo đời, hè đi phơi phới" (unashamed thì mới đi phơi phới được chứ? - cùng cách nâng cấp quần áo thành áo đời). Nhưng đọc kỹ lời Mỹ, thi thấy nó không có ép-phê như lời Pháp. Tỷ như đoạn cuối: "Hè ve vuốt lần cuối, rồi Hè sẽ mặc áo Thu vào" không "ấn tượng" cho lắm. Đọc kỹ lời Mỹ để thấm thía cách chuyển dịch thoát nghĩa của nhạc sĩ Phạm Duy: "Mùa Thu bước về, lê thê..." Ba âm "ê" (về, lê, thê) liền nhau đã kéo dài cái mùa thu sắp đến ra, làm ta càng tiếc cho mùa Hè chưa hết mà đã xa ... Nhạc sĩ đã cho biết dụng ý của câu chót như sau:
Với lời ca của bài HÈ 42 (The Summer Knows) này, tôi còn cố gắng nói tới một chút hạnh phúc trong thời gian ngắn ngủi của đời người là mùa hè. Hãy vui lên, hãy yêu đi trước khi mùa Thu của đời mình lê thê bước tới. - Phạm Duy (Ngàn Lời Ca Khác)
Tóm lại, dịch từ một bài nhạc từ ngôn ngữ này qua ngôn ngữ khác, cũng như viết lời cho giai điệu là một chuyện không dễ làm.
Hiệp Dương (aka Học Trò)