Thời Kỳ Thành Lập (1938-45) - Xu Hướng Nhạc Tình Duy Nhiên/Lãng Mạn/Trữ Tình - Nhóm Hải Phòng [2]
- Chi tiết
- Phạm Duy
- Lượt xem: 3192
Chàng Văn, lúc tuổi 20
Bên cạnh Hoàng Quý, tại Hải Phòng, còn có thêm các ca nhạc sĩ tài tử thuộc loại tiền phong như Phạm Ngữ, Canh Thân, Hoàng Phú (em của tác giả Cô Láng Giềng) nhưng trong chặng đầu của Tân Nhạc này, họ chưa làm quen với quần chúng qua các bản nhạc tình. Họ là những ngôi sao trong xu hướng nhạc vui khoẻ, đa số nhắm vào tình tự quê hương mà tôi sẽ nói tới trong bài tới. Chỉ qua tới thời kỳ sau, thời kỳ khởi đầu cho sự phát triển âm nhạc mới, người ta mới được thưởng thức một câu chuyện ái tình rất ư lãng mạn qua một ca khúc tuyệt diệu là Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa của Hoàng Phú sau khi ông đổi tên là Tô Vũ.
Nhưng ở Hải Phòng, đã có Văn Cao ! Ðã có Văn Cao trong nhóm ÐỒNG VỌNG (của Hoàng Quý và bạn bè) với ít nhiều bản nhạc vui khoẻ, nhưng ở đây, chúng ta đang đả động tới nhạc tình. Và nói tới nhạc tình thì... Văn Cao là nhất !
Từ khi Tân Nhạc ra đời, chúng ta đã có một loại nhạc tình mà đặc tính là lãng mạn, qua các nhạc phẩm của Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn... Tất cả những bản nhạc tình đó, cũng giống như nền THƠ MỚI Việt Nam lúc bấy giờ, bị ảnh hưởng văn chương và thi ca lãng mạn Pháp. Cụ thể mà nói, những người viết nhạc tình đầu tiên của Việt Nam đều theo lãng mạn tính trong cá nhân chủ nghĩa của Pháp.
Chẳng khác chi lớp nghệ sĩ trẻ vào lúc đó, Văn Cao cũng bị mùa Thu ám ảnh cho nên những bản nhạc tình lãng mạn đầu tiên của ông đều nói tới mùa Thu. Những bài như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu còn pha trộn thêm cái buồn của Ðông Phương. Lời ca của Thu Cô Liêu nghe như bài thơ Ðường :
Thu Cô Liêu tịch liêu
Cô thôn chiều
Ta yêu thu, yêu Mùa Thu...
Vàng hoen đáy nước, son rõ đường đi
Một mùa thi, một mùa thi
Lá xanh rơi rụng buồn chi lá vàng...
Nhạc điệu thì theo nhạc chủ thể Tây Phương (musique tonale) với những áp-âm (notes sensibles) làm cho nét nhạc có nhiều cảm tính. Nhịp điệu là thể valse đầy lưu luyến và cũng đầy luyến tiếc :
Trăng ấp lạnh non sương cứng lá
Ðã từng nghe rõ biết thu sang
Hồn theo cánh gió lướt bay tìm em
Một chiều êm, một chiều êm...
Cũng với nhạc thuật này, Văn Cao soạn bài Cung Ðàn Xưa, lần này thì nói tới mùa Xuân nhưng lại là một một Xuân đã tàn, đã chết. Tuy là một bài hát ngắn, nhưng Văn Cao cũng chia ra 4 đoản khúc rõ ràng. Ðoạn đầu nói tới cung đàn năm xưa :
Hồn cầm phong hương
Hình bóng Xuân tàn
Ngày dần buông trôi
Sầu vắng cung đàn.
Lời đàn năm xưa
Xe kết đôi lòng
Lời đàn năm nay
Chia rẽ đôi lòng....
Ðoạn 2 nói tới cung Thương, cung Nam mà Lê Thương, Phạm Duy cũng đều nói tới qua những bài Tiếng Ðàn Xuân, Khối Tình Trương Chi :
Cung Thương là tiếng đàn
Cung Nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm chìm rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi.
Ðoạn 3 chuyển qua một nhịp điệu khác, nói tới sự buồn rầu trong cung đàn xưa :
Cung đàn ngân
Buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân
Buồn như lúc Xuân sắp tàn
Ôi đàn xưa
Còn vang nhắc chi đến người
Lòng ta tắt bao thắm tươi
U hoài duyên đưa...
Thì ra tất cả ba đoạn nói tới một cung đàn xưa đó chỉ muốn nhắc tới một người mà Văn Cao diễn tả một cách tuyệt mỹ, một người tình tưởng tượng có đôi mắt giữ lại mùa Xuân, có đôi chân đi tới đâu hoa nở tới đó, có thân hình thơm hương, có tiếng nói khơi dậy thương yêu... khiến cho hiện thân của anh Trương Chi là Văn Cao đó, bây giờ đã phải cất lên tiếng đàn giao hoan và dệt nên không biết bao nhiêu là mộng mị :
Chiều năm xưa
Gót hài khai hoa
Mắt huyền lưu Xuân
Dáng hồng thơm hương
Chiều năm nay
Tiếng người khơi thương
Tiếng đàn giao hoan
Giấc mộng chàng Trương...
Bài hát sẽ trở lại Ðoạn Ðầu để hết.
Ít lâu, sau thời kháng chiến...
Tôi muốn nói tới hai bài hát Thu Cô Liêu, Cung Ðàn Xưa này là vì, đáng tiếc thay, rất ít người biết tới những bản nhạc tình đầu tay của Văn Cao, trong đó ta đã thấy manh nha những hình ảnh, những ý tình, những cái đẹp mà Văn Cao sẽ phát triển tột độ trong hai bài ca bất hủ là Thiên Thai và Trương Chi. Những cô hái mơ, cô bán hoa, cô hàng nước, cô lái đò, cô láng giềng... mà ta thấy xuất hiện trong các bản nhạc tình thuở đó, làm sao mà có được những gót hài khai hoa, mắt huyền lưu Xuân, dáng hồng thơm hương... như trong bản Cung Ðàn Xưa của Văn Cao ? Chỉ cần có 12 chữ, và dù chỉ để xưng tụng một người tình tưởng tượng mà thôi, Văn Cao đã đưa nhạc tình tiền chiến lên tới một cao độ vượt khỏi những khuôn sáo cũ mèm.
Sau những bản nhạc tình đầu tay xuất sắc như vậy, Văn Cao soạn Suối Mơ và Bến Xuân. Lúc đó, chưa ai có thể mô tả cái đẹp của con suối trong rừng Thu như Văn Cao :
Suối mơ
Bên rừng Thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
Ngày chưa đi sao gió vương
Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thùy dương...
Hoặc người đẹp trong cảnh đẹp nơi Bến Xuân :
Tới đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền soi nước...
. . . . . . . . . .. . . . .
Tới đây mây núi đồi chập chùng
Liễu dương hơ tóc vàng trong nắng...
Trong cả hai bài nhạc tình về mùa Thu và mùa Xuân này, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy nguôi ngoai, sảng khoái. Con suối trong rừng Thu buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình yêu chúng ta :
Suối ơi
Nghe rừng heo hút
Dòng êm đưa lá khô già trút
Còn như lưu hương yêu dấu
Với suối xưa trôi nơi đâu ?
Ðứng trên bến Xuân để nhìn những cánh buồm xa và nghe tiếng chim ca lưu luyến cuộc tình vừa qua của chúng ta :
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua...
Văn Cao nổi danh rất sớm vì một bài hát về mùa Thu là bài Buồn Tàn Thu, nhưng bài này không có giá trị nghệ thuật cao bằng những bài tôi vừa nói tới. Vì Buồn Tàn Thu được hát trên sân khấu gánh hát rong và trên Ðài Phát Thanh Saigon trong những năm 43-45 là lúc Tân Nhạc còn mới phôi thai, cho nên nó được phổ biến nhiều hơn là Thu Cô Liêu hay Cung Ðàn Xưa... Nhưng những bài tình ca nhỏ nhặt đó sẽ bị mờ đi khi Thiên Thai và Trương Chi ra đời. Với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thuở.
Tôi đã có dịp nói tới không khí Ðường Thi trong nhạc Văn Cao, nghĩa là nói tới chất thơ trong sáng, cô đọng ngay từ trong những bản nhạc đầu tiên của ông. Ta thấy những bài Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu... như có vẻ vừa thoát ra từ khung cảnh THU HỨNG của Ðỗ Phủ. Nghe câu hát trong bài Cung Ðàn Xưa : "Chiều năm xưa gót hài khai hoa, mắt huyền lưu Xuân, dáng nồng thơm hương" ... thì ta nghe ra như một câu thơ của Thôi Hiệu...Nhưng trong thời kỳ thành hình và phát triển của Tân Nhạc, Văn Cao cũng không phải là chàng nhạc sĩ trẻ tuổi độc nhất đã bị ảnh hưởng của Thơ Ðường. Nhạc sĩ Lê Thương mà đã chẳng biết dùng khung cảnh TRĂNG QUAN SAN của Lý Bạch để soạn ra câu hát : "Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn" khiến cho ba bản Hòn Vọng Phu của ông đã trở thành bất diệt đó à ? Có lẽ cũng cảm thấy ma lực của Ðường Thi trong Tân Nhạc cho nên về sau này tôi cũng mượn không khí : "Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự - Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền" của Trương Kế để soạn ra câu hát trên sông Lô : "Thuyền tôi đậu bến Sông Lô - Nửa đêm nghe tiếng quân thù thở than"... Nếu chúng ta đi xa thêm vào dĩ vãng, ta lại còn thấy trong truyền thống Hát Ả Ðào, những bài thơ như Tương Tiến Tửu, Tiền Hậu Xích Bích... của Thơ Ðường đã trở thành những điệu hát hoàn toàn Việt Nam. Còn trong sân khấu Cải Lương Miền Nam, thì cũng lại có hẳn một điệu hát được gọi tên là Dạ Bán Chung Thinh. Ai cũng bị ảnh hưởng Ðường Thi mà chẳng nói ra hay chưa có dịp để nói ra. Nhưng với bài Thiên Thai ra đời vào năm 1944 thì Văn Cao đã không ngần ngại viết mấy câu đề tựa như sau :
"... Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Ðường Thi với hai truyện Thiên Thai và Ðào Nguyên. Người Sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi. Mùa Xuân Giáp Thân, Văn Cao..."
Thiên Thai
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Ðào Nguyên.
Kìa đường lên tiên,
Kìa nguồn hương duyên,
Theo gió tiếng đàn xao xuyến.
Phím tơ lưu luyến
Mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến
Như nước reo mạn thuyền...
Ta hãy thử xem những bài thơ Ðường mà Văn Cao vừa kể ra như Ðào Nguyên Hành của Vương Duy và Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai của Tào Ðường đã có những gì để khiến cho người nhạc sĩ mang thêm bí danh là Người Sông Ngự này đã phải lạc cảm xúc ? Trong cuốn ÐƯỜNG THI in tại Saigon vào năm 1971, Giáo Sư Phạm Liễu đã cho rằng cảnh Ðào Nguyên là cảnh đẹp vô cùng lý tưởng. Bài thơ của Vương Duy dẫn chúng ta vào một khung cảnh thần tiên :
Chiếc thuyền câu đẩy đưa trên sông nước
Mê sắc trời núi đẹp ánh xuân xa
Ðôi bờ Ðào Hoa, bến thuyền xưa ấy
Ngồi ngắm nhìn cây thắm, không biết xa...
Chốn suối hoa đào thần tiên đó mà có được, chẳng qua cũng chỉ vì thi sĩ có quá nhiều gian khổ trong cuộc đời cho nên đã phải tạo ra cho mình một nơi để ẩn lánh. Một nơi mà sau này thi bá Vũ Hoàng Chương bước vào thì phải lạc lối, người thơ của lên đường Tản Ðà tới được thì, sau nửa năm tiên cảnh, một bước trần ai... sẽ phải giã biệt nơi cảnh đẹp lý tưởng đó với tiếng suối tiễn, tiếng oanh đưa.... và nếu chúng ta có tới được thì cũng chẳng ở được lâu, cũng giống như truyện hai chàng thư sinh mang họ Lưu, họ Nguyễn lạc vào cõi Thiên Thai vậy. Ở dưới trần thì mơ lên tiên cảnh. Ở tiên cảnh thì lại đòi về dương trần... Ðó là thân phận con người, la condition humaine.
Bài thơ của Tào Ðường thì diễn tả cảnh hai chàng thư sinh đi hái thuốc, không ngờ lại tới được chốn Ðào Nguyên :
Khe cây, lối đá nhận đường vào
Hoa cỏ không vương mảy bụi nào
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Nhìn bóng dáng mây quên việc trước
Trông chiều cây nước ngỡ chiêm bao
Muốn biết về đâu, non nước ấy
Hỏi thăm, nên tới suối Hoa Ðào...
Người Sông Ngự/Văn Cao đã thú nhận rằng mình bị ảnh hưởng sông nước của hai truyện Ðào Nguyên, Thiên Thai cho nên đã soạn ra một bài hát. Một bài hát, theo tôi thật là tuyệt diệu. Nó vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh. Nếu như hình thức ca khúc trong Tân Nhạc Việt Nam cho tới năm 1944 này vẫn còn nằm trong khuôn khổ một đoản khúc được ước định trong một số khuôn nhạc nào đó, với một lối chuyển cung, chuyển điệu công thức nào đó... thì bản Thiên Thai của Văn Cao đã vươn lên một hình thức rất lớn, chia ra nhiều đoạn, nhiều cảnh, gồm tới con số 94 khuôn nhạc, chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca thần diệu.
Với tài năng đã nở rộ cùng với bước đi tới của Tân Nhạc, Văn Cao mô tả cảnh đầu của bài Thiên Thai của ông, cảnh hai chàng Lưu Nguyễn lạc tới Ðào Nguyên :
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Ðào Nguyên...
Sau khi mở ra một tiếng hát của ai không biết, hát vang lừng trên sóng để đẩy đưa hai chàng Lưu Nguyễn lạc tới Ðào Nguyên... thì, với một nét nhạc leo thang, Văn Cao vẽ ra con đường lên tiên, nơi nguồn hương duyên, theo gió bay lên với tiếng đàn xao xuyến... Ngay trong cảnh đầu của bài ca, ngay từ khi con thuyền nào đó (con thuyền câu của ÐÀO NGUYÊN HÀNH ?) đưa hai kẻ si tình này đi vào cõi mộng, Văn Cao chỉ nói tới phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền, mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền... Tuyệt nhiên không có tả cảnh. Con đường lên tới suối hoa đào cũng không phải qua khe cây hay lối đá để nhận đường vào... như trong bài thơ của Tào Ðường. Tôi thì nghĩ rằng đây có lẽ là chiếc thuyền của anh Trương Chi mà Văn Cao đã cho hai chàng Lưu Nguyễn mượn tạm. Và những âm ba của giọng hát mà Văn Cao nói tới trong đoạn này đã làm cho hoa đào nơi suối tiên phải rụng cánh, có lẽ đó chính là tiếng hát của người thợ chài trên Sông Ngự, trong cuộc đời có thực hay trong cổ truyện lung linh vậy. Tiếng hát đưa đẩy con thuyền tình trôi trên nước ngọc tuyền, và người trên thuyền cũng thấy quê hương dần xa lấp trong núi ngàn như trong hai bản Ðường Thi... để gặp một tiếng hát khác, tiếng hát của bầy tiên bên bờ Ðào Nguyên :
Âm ba, thoáng rung cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước ngọc tuyền
Ai hát bên bờ Ðào Nguyên...
Trong đoạn này, Văn Cao đã chuyển nét nhạc một cách rất tài tình, dùng những nốt-bán-cung để di chuyển rất nhanh chóng câu hát đi từ một chủ âm mineure này qua chủ âm mineure khác, cho ta thấy được rất nhiều mầu sắc của khung cảnh thần tiên này. Mầu sắc ở đây lại không có gì là sặc sỡ, nó mơ hồ, nó nên thơ, nó huyền diệu...
Ai hát bên bờ Ðào Nguyên ? Ðó là bầy thiên tiên đang đứng hát đón chờ hai gã tình lang tại một nơi còn nguyên vẹn trinh tiết bởi vì mùa Xuân ở đây chưa bao giờ gặp bướm trần gian tới làm cho Xuân phải ô uế, và mùa đào thì theo dòng ngày tháng chưa hề bao giờ tàn. Với một nhạc điệu rất đẹp chảy dài từ bát độ trên xuống bát độ dưới, với một nhịp điệu lẳng lơ nhưng thanh thoát, Văn Cao cho chúng ta một đoản khúc có thể là khúc Nghê Thường mà ta vẫn nghe nói tới trong Ðường Thi :
Thiên Thai
Chốn đây hoa Xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần.
Thiên tiên
Chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc Nghê Thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn...
Nhạc bỗng sáng lên, chuyển qua giọng majeure nhưng lời ca thì vẫn chỉ nói tới tiếng đàn, tiếng nhạc... Tuyệt nhiên không nới tới người. Bầy tiên chỉ là hư ảnh. Biết đâu, ngay cả hai chàng Lưu Nguyễn cũng không có mặt trong bài ca ? Rồi nhạc lại chuyển vội về giọng mineure để nói rằng tiếng đàn xui chúng ta quên đời dương thế, tiếng đàn non tiên cũng biết khao khát cuộc tình duyên :
Ðàn soi trăng lên, nhạc lắng tiếng quyên
Ðây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc Bồng Lai
Là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi.
Ðàn xui ai quên đời dương thế
Ðàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên...
Cho mãi tới bây giờ Văn Cao mới hé cho ta thấy cuộc ái ân nổi dậy giữa người tiên người phàm bằng cách quay lại với nhạc đề chính trong bài ca :
Thiên Thai
Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ai ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần...
Ðàn phách lại nổi lên. Nhạc Văn Cao rộn rã một cách khác thường. Gió hắt đi những tiếng hát. Những tiếng hát này sẽ làm se lòng người mỗi khi được nghe lại. Lưu Nguyễn quên trần hoàn rồi. Họ cùng bầy tiên đàn ca một vài ba thế kỷ :
Gió hắt trầm tiếng ca
Tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta.
Ðào Nguyên trước, Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm.
Nhớ quê chiều nào xa khơi
Chắc không đường về tiên nữ ơi...
Rồi cũng với nhạc đề này, Văn Cao nói tới sự quay trở lại đường tiên của hai ông cụ già Lưu Nguyễn, nhưng than ôi, Ðào Nguyên đã biến mất rồi. Chỉ còn rền lại tiếng ca của cõi tiên :
Gió hắt trầm tiếng ca
Tiếng phách ròn lắng xa.
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta.
Ðào nguyên trước, Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Ðào Nguyên, Ðào Nguyên nơi nao
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên...
Tuy viết ra một bản hát vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh, nhưng Văn Cao không tả thực trong bài Thiên Thai này. Tất cả những hình ảnh chính của câu truyện cổ như hai chàng Lưu Nguyễn, bầy thiên tiên hoặc những cảnh vật như suối hoa đào, chiếc thuyền lan, nước ngọc tuyền, đều được mô tả một cách rất mơ hồ... giống như trong một giấc mộng vậy. Ta biết là có con thuyền chở Lưu Nguyễn tới cõi Thiên Thai, ta biết là có bầy thiên tiên múa hát dâng trái đào thơm... nhưng ta không thấy được họ. Khi cùng người yêu xây được ngôi nhà cỏ bên suối mơ hay trước bến xuân với hai tình khúc trước, thì Văn Cao có thể mời đón chúng bước vào căn nhà bên chiếc cầu soi nước để ngồi nhìn đàn nai đùa trên đống lá vàng tươi. Nhưng trong Thiên Thai, cõi mơ của Văn Cao, chúng ta không thể nào bước vào cái vườn cấm này được. Ðây là cõi riêng của Người Sông Ngự. Nhưng ta lại được sự tự do tuyệt đối để nghe lên toàn thể tiếng đàn, tiếng hát vút lên từ đầu tới cuối của trường khúc Thiên Thai này, tiếng đàn, tiếng hát mà tôi đã cho là của anh Trương Chi trong truyện cổ của chúng ta, và nhạc sĩ Văn Cao đã cho Thiên Thai mượn tạm. Thiên Thai là cõi riêng của Văn Cao. Trương Chi mới là tiếng hát của Văn Cao.
Văn khi còn nhanh nhẹn...
Thuở tôi còn nhỏ, ở Hà Nội thường có những người đi hành khất bằng giọng hát, nghĩa là họ đến trước cửa từng nhà để hát những câu chuyện cổ Việt Nam, hát xong thì ngửa tay xin tiền. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh người ca sĩ/ăn mày đó, miệng thì hát, tay thì đập vào cái hộp sắt bỏ trong túi áo để đập nhịp cho bài hát. Và hình như anh ta chỉ có một bài hát duy nhất để làm vũ khí cho nghề đi ăn xin của anh mà thôi. Ðó là bài hát về anh Trương Chi :
Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu, tiếng hát thì thật hay
Cô Mỵ nương vốn ở Lầu Tây
Con Quan Thừa Tướng ngày rày cấm cung...
Sau này, tôi vẫn thường cám ơn thầm người hành khất bằng giọng hát đó, bởi vì ngay từ khi tôi chưa có đủ trí khôn để hiểu biết cuộc đời thì anh ta đã nuôi dưỡng tình cảm của tôi bằng một câu chuyện tình đẹp ngang với những chuyện tình đẹp nhất trên thế giới.
Câu truyện cổ tích về anh Trương Chi người thì thậm xấu, tiếng hát thì thật hay mà ca nhạc cổ truyền đã xưng tụng qua hình thức hát rong, hát dạo, hát xẩm... cũng đã được các thi sĩ, văn sĩ của thời nay nhắc tới, chẳng hạn như trong bài thơ Bài Ca Ngư Phủ của Vũ Hoàng Chương mà Hoàng Thư đã ngâm lên một cách mê ly trên các Ðài Phát Thanh ở trong nước cách đây hai, ba mấy chục năm. Thạc Sĩ Phạm Duy Khiêm thì viết truyện Le Cristal d'Amour bằng Pháp Ngữ, in trong cuốn Légendes Des Terres Sereines. Thi sĩ Hoàng Cầm còn dùng truyện cổ đó để soạn vở kịch thơ Tiếng Hát với nội dung chính trị : không ai nhốt giam nổi tiếng hát.
Chàng Văn về già...
Trong giới Tân Nhạc, thì có Hùng Lân viết bài Hận Trương Chi, Phạm Duy viết bài Hận Trương Chi, và Văn Cao viết bài Trương Chi. Với bài hát nói lên một nỗi hận, Hùng Lân không kể chuyện anh Trương Chi, ông chỉ mượn một nhân vật tiêu biểu cho giới cầm ca để nói luôn đến chuyện Tử Kỳ và Bá Nha, chuyện người hát hay, đàn hay mà không có người thưởng thức. Phạm Duy là tôi lúc còn ấu trĩ, thì khách quan kể lại câu truyện cổ truyền. Riêng chỉ có Văn Cao là nói tới nhân vật tài hoa truyền kỳ này, nói tới sự não nuột trong tiếng nhạc Trương Chi, tới con người và số phận, đồng thời cũng là nói về mình.
Không phải bây giờ Văn Cao mới nói tới Trương Chi. Người Sông Ngự đã đưa hồn Trương Chi vào hồn mình từ lâu rồi. Từ khi nói tới một trong những chiều năm xưa có những cung đàn cũng năm xưa ấy réo rắt lên, bên một người con gái đẹp... mà gót hài khai hoa...
...Mắt huyền lưu Xuân
Dáng hồng thơm hương...
đã khiến cho chàng Trương/Văn Cao phải đưa vào mộng mị :
Chiều năm nay
Tiếng người khơi thương
Tiếng đàn giao hoan
Giấc mộng chàng Trương...
Lúc đó, Văn Cao chỉ mới hé lộ cho ta thấy tâm hồn của ông là tâm hồn của chàng ngư phủ thất tình họ Trương. Bây giờ, ông phát triển tiếng hát câm lặng đó bằng một trường khúc não nuột nhưng cũng rất kiêu xa.
Bài hát mở đầu bằng những câu nhạc dài, giống như trong bài Thiên Thai, nhưng có tính cách mô tả nhiều hơn :
Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ.
Vương vất heo may hoa yến mong chờ
Ôi tiếng cầm ca, Thu tới bao giờ...
Kiêu xa lắm chứ. Khi Văn Cao cho rằng từ lúc mới có Trời, có Ðất... khi chưa có Thơ thì đã có Nhạc rồi. Và chỉ có nhạc thì mới kéo được mùa Thu tới cho loài hoa, loài chim, loài người... Rồi cũng với câu nhạc đó, Văn Cao đưa tiếng nhạc của Trương Chi tới Mỵ Nương :
Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang
Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi trong khúc nhạcvàng
Ðây đó từng song he hé đợi đàn...
Một nét nhạc khác cho ta thấy Mỵ Nương vui vẻ chờ đợi tiếng hát :
Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng con đò trôi.
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi
Lả lơi bên trời...
Nét nhạc bây giờ vút lên, như tiếng nức nở của Trương Chi sau khi Mỵ Nương bị thất vọng về cái nhan không có sắc của anh :
Anh Trương Chi
Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung
Anh thương nhớ, oán trách cuộc từ ly não nùng
Ðò trăng cắm giữa sông vắng
Gió đưa câu ca về đâu
Nhìn xuống đáy nước sông sâu
Thuyền anh đã chìm đâu....
Thuyền anh đã chìm sâu, có nghĩa là anh đã gieo mình xuống sông tự tử, nhưng oan hồn của anh còn đó khiến cho tiếng hát vẫn không tắt nghỉ. Khách giang đầu còn được nghe mãi mãi tiếng than khóc của Trương Chi :
Từng khúc nhạc xa vời
Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi
Sương thu vừa buông xuống
Bóng cây ven bờ xa mờ xoá dòng sông
Ai qua bến giang đầu tha thiết
Nghe sông than mối tình Trương Chi
Dâng úa trăng khi về khuya
Bao tiếng ca ru mùa Thu...
Nhưng Trương Chi có thực sự than khóc cái nghèo nàn, cái xấu trai của mình hay không ? Ta hãy nghe Văn Cao chuyển cung từ re mineure qua sol majeur một cách xướng tai vô cùng, để diễn tả giọt mưa rơi ngoài song cửa Mỵ Nương như rơi trên những cung đàn huyền diệu. Mưa cũng rơi trên con thuyền ngoài dòng sông lạnh, thuyền này chưa chắc đã là của Trương Chi :
Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn
Còn nghe như ai nức nở và than
Trầm vút tiếng gió mưa
Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than
Trầm với tiếng gió vương
Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa...
Vào thuở đó, trong lúc Tân Nhạc mới chập chững biết đi mà Văn Cao đã viết được những câu nhạc diễn tả giọt mưa tài tình như vậy, thật là hiếm có. Nếu ta nhận ra được nét nhạc sol majeur trong đoạn mưa rơi trên cung đàn này là nhạc ngũ cung thì ta lại càng yêu quý Văn Cao hơn lên.
Câu chuyện tình éo le nhưng rồi cũng kết thúc một cách đẹp đẽ : Trương Chi chết đi nhưng vì cuộc tình chưa thoả cho nên trái tim không chịu tan đi và hoá thành ngọc đá. Rồi người đời đem viên ngọc đó ra để làm thành một bộ chén trà dâng tặng gia đình nhà quan. Trong một tiệc trà, Mỵ Nương bưng chén ngọc lên, thấy hình ảnh chàng ngư phủ cất tiếng hát trong miệng chén. Thương nhớ con người và giọng hát năm xưa, nàng rơi lệ Giọt nước mắt nhỏ xuống chén ngọc. Thế là mối oan tình từ bao năm nay đã được thoả mãn. Và bây giờ thì chén ngọc, hay là trái tim của Trương Chi mới chịu tan đi. Văn Cao không đả động tới chuyện đó. Ông tiếp tục soáy vào nhân vật Trương Chi :
Ðò ơi
Ðêm nay dòng sông Thương dâng cao
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền ta ca trái đất còn riêng ta.
Ðàn đêm thâu
Trách ai khinh nghèo quên nhau.
Ðôi lứa bên giang đầu
Người ra đi với cuộc phân ly
Ðâu bóng thuyền Trương Chi...
Như tôi đã nói : Văn Cao không kể lại câu chuyện Trương Chi/Mỵ Nương. Ông chỉ tỏ thái độ của Chàng Trương sau khi thất tình, trước khi chết cũng như sau khi chết : Ngồi đây ta gõ ván thuyền Ta ca trái đất còn riêng ta...
Tâm hồn tôi đẹp - vì tôi hát hay mà - nhưng hình hài tôi xấu, người không yêu tôi à ? Thì tôi vẫn có cuộc đời hay trái đất này để ra một tuyên ngôn : Trái đất còn riêng ta. Trách ai khinh nghèo quên nhau. Trách ai ? Trách chính quyền hay trách người đời không bao giờ dung nổi con người nghệ sĩ ? Ta vẫn còn riêng Ta. Ðó là ý nghĩa của bài Trương Chi...
Người Việt Nam yêu nhạc, trải qua gần 50 năm lịch sử của Tân Nhạc lúc nào cũng sẵn sàng bị phản bội. Không phải tới bây giờ, ở trong những cộng đồng Việt Nam trên hải ngoại, những nhà tái bản sách nhạc, những con buôn của nghề sản xuất lậu băng nhạc, những ca sĩ không biết tự trọng... luôn luôn khinh miệt người sáng tác bằng cách sử dụng bừa bãi những tác phẩm làm bằng mồ hôi và nước mắt của tác giả như : không xin phép, không trả tác quyền, không đề tên tác giả trong bìa băng, không hát đầy đủ lời ca của tác phẩm... Ngay từ hồi Văn Cao viết bài tình ca bất hủ Trương Chi này, người ta cũng không bao giờ chịu để ý tới lời 2 của nhạc phẩm để in ra hoặc hát lên. Hôm nay, tôi có dịp để ghi lại những lời ca đẹp như trái tim ngọc đá của ngư phủ họ Trương :
Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ
Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ
Ngây ngất không gian rên xiết lay bờ
Bao tiếng cầm ca rung ánh sao mờ
Nhạc còn lưu luyến nhắc ai huyền âm
Lạnh lùng dôi dây tố lan trầm ngân
Trong lúc đêm khuya ai lóng tiếng cầm
Thu đã chìm xa xa ánh nguyệt đầm
Khoan khoan đò ơi, tương tư tiếng ca
Chàng Trương Chi cất lên hò khoan
Ðêm thu dài đến, khoan tiếng nhạc ơi
Nhạc ơi, thôi đàn...
Có một điều buồn đến với tôi khi hát lên lời 2 của bản Trương Chi này. Văn Cao tiên tri cái ngày mà ông không được phép đàn hát nữa ? Như đã xẩy ra sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm ? Ðêm Thu dài đến, khoan tiếng nhạc ơi. Nhạc ơi, Thôi đàn... Ðêm Thu đến với Văn Cao, quả rằng nó đã quá dài. Dài tới 30 năm có lẻ. Văn Cao đã chết đi như Trương Chi, trái tim chàng có lẽ cũng đã thành viên ngọc đá. Ai là người sẽ nhỏ lệ lên trái tim Văn Cao ?
Chai rượu muộn màng, mời bạn nhấm nháp...
Hà Nội, Mùa Xuân năm 2000
Phạm Duy