Phạm Duy: từ Dân Ca Kháng Chiến đến Tổ Khúc Bầy Chim Bỏ Xứ

Phạm Duy bắt đầu sáng tác âm nhạc từ năm 1942 với bài thơ CÔ HÁI MƠ của Nguyễn Bính mà ông đã phổ nhạc thành một trong những bài ca cải cách đầu tiên của nền Tân Nhạc Việt Nam. Nhưng phải chờ đến cuộc Cách Mạng Mùa Thu năm 1945 với cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp Thực Dân, Phạm Duy mới có đủ hứng khởi sáng tác gần 50 bài ca kháng chiến mà đặc biệt nhất là Dân Ca Kháng Chiến để xưng tụng một dân tộc anh hùng vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ, giành độc lập cho chính mình và tiết kiệm xương máu cho nhân loại trong phong trào giải phóng các dân tộc nhược tiểu. Cuộc kháng chiến tạo thời thế gây cảm hứng cho Phạm Duy và nhạc Phạm Duy tô điểm, khích lệ cho cuộc kháng chiến. Phạm Duy trong khoảng tuổi đời mới từ 25 tới 30, đã trở thành người nhạc sĩ hàng đầu với số lượng, chất lượng và đặc biệt nhất là đa số các bài mang âm hưởng truyền thống Việt Nam. Dân Ca Kháng Chiến mới thực sự là cái mốc đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác âm nhạc của Phạm Duy.


Tổ Khúc Bầy Chim Bỏ Xứ cũng không phải là tác phẩm cuối cùng của Phạm Duy. Vì nó đã được thai nghén từ đầu năm 1975 trước khi bỏ nước ra đi, xong được 5 đoản khúc trong năm tị nạn đầu tiên tại Hoa Kỳ (cuối năm 1975) và đã tạm hoàn thành như một tổ khúc vào năm 1985. Rong Ca ra đời mùa Xuân 1988 với các bài Hẹn Em Năm 2000, Bài Hát Nghìn Thu... mới là sáng tác mới nhất của Phạm Duy.

Tuy tạm xong từ 5 năm nay, Tổ Khúc Bầy Chim Bỏ Xứ chưa bao giờ được ''tung ra'', vì lẽ tác giả cảm thấy còn nhiều điều chưa ổn :


-- Bầy chim bỏ xứ... ra đi, là bất ổn.
-- Bầy chim hồi xứ... bằng ảo vọng phải đánh đuổi các loài chim khác :


Bầy chim hồi xứ
Trời mây đón đưa chim
Diều, kên, quạ, cú
Ðuổi lui sống trong đêm...
(theo bản cũ 1985)


... lại càng không ổn nữa.

Phạm Duy, ngoài con người nghệ sĩ, còn có một thính quan chính trị sắc bén, có đầu óc tổ chức, có tinh thần quân bình, tiền ứng hậu đối, sáng tác âm nhạc như một vị tướng quân điều binh trị nước :


-- Có Chiến Ca thì lại có Bình Ca.
-- Có Người Ra Ði (1947 khởi đầu kháng chiến) thì lại có Người Về (1954 kết thúc kháng chiến).
-- Người đi chiến đấu, xác rơi ngoài đồng và mất đầu ở Huế năm 1946 (xác không đầu mà vui...) thì lại có người nhận lại đầu ở huyện Gio Linh năm 1948 (nghẹn ngào không nói một câu, mang khăn gói đi lấy đầu...
-- Có Tình Ca lả lơi, mặn nồng, thì lại có Bé Ca thơ ngây, nhí nhảnh.
-- Có Thanh Niên Ca thì lại có Nữ Ca.
-- Có Bà Mẹ Quê từ quá khứ, sinh ra Vợ Chồng Quê trong hiện tại rồi mới đẻ ra chú Em Bé Quê cho tương lai.
-- Ðau lòng vì cuộc nội chiến ủy nhiệm thì có Tâm Ca, phẫn lên thì có Tâm Phẫn Ca, uất lên đến nỗi phải chửi thề thì có Tục Ca, để rồi '' ngộ '' ra cuộc đời chỉ là sắc sắc không không thì có Ðạo Ca.

Tâm Ca, Tục Ca, Ðạo Ca và nhiều bộ khác như Rong Ca gần đây, đều gồm 10 bài. Số 10 là căn bản cho nền văn minh khoa học hiện đại và cũng bao gồm Thái Cực (số 1) và Vô Cực (số 0) của Dịch Lý.

Tục Ca không phải để tự hủy hay phá huyền thoại, mà chỉ là một bến cảm xúc của dòng tình cảm như nưóc sông chảy qua, chẳng bao giờ trở lại. Ðừng đòi hỏi ở Phạm Duy cái gì phải giống ngày hôm qua. Quyển NGÀN LỜI CA không phải chỉ có nghìn lời ca, ý nhạc mà có cả ngàn tình cảm, ý tưởng : hỷ, nộ, ái, ố, Phật, Chúa, Lão, Khổng và... Phạm Duy. Ông làm nhạc theo xúc động, cảm hứng, dĩ nhiên, nhưng luôn luôn tôn trọng một số nguyên tắc và kỷ luật.

Cho nên Tổ Khúc bị xếp lại, bị ''bỏ quên trong một góc hồn'' mãi đến mùa Xuân năm 1990 mới được ''moi'' ra, được bổ xung sửa đổi cả phần nhạc và lời để được in ra, được thu thanh vào băng cassette và compact disc -- như một thông điệp -- với những kỹ thuật tân kỳ bằng những phương tiện giới hạn mà tác giả đang có trong cuối đời mình.

Vì tác giả, với một tấm lòng trong sáng, yêu quê hương và dân tộc, ước mong Bầy Chim Việt có được ngày hồi xứ, xây dựng lại quê hương :


Ðể thấy giang sơn là không riêng rẽ
Của lũ chim nào, là chốn vui chung...

Tác giả ước mong '' diều hâu bạo dữ '' được '' mời '' (chứ không phải đuổi) đi giữ biên cương'', còn chim ngoan thì xin '' mời về xây đắp quê hương ''. Cũng như hình ông Thiện, ông Ác ở trước cổng đền chùa Việt Nam là biểu tượng quân bình giữa màng lưới chặt chẽ nội an, quốc phòng và ban tay nhân từ kinh bang, tế thế.

Bản thân Phạm Duy chưa hạ cánh xuống Nội Bài hay Tân Sơn Nhất mà vẫn cảm thấy như đã ríu rít gặp lại bạn cũ :


Chim vui về họp ở khu rừng
Chim hồi sinh réo bạn tưng bừng
Từ Bắc Quang, Bắc Mục về núi Tản
Hội chim còn dài, biết mấy Thu Ðông...

Tổ Khúc Bầy Chim tuy không phải là sáng tác mới nhất của Phạm Duy, nhưng lại là tác phẩm đánh dấu sự chấm hết đời lưu vong bỏ xứ của Phạm Duy. Phạm Duy với con người bản năng vẫn còn ở Thị Trấn Giữa Ðàng Hoa Kỳ. Phạm Duy với tâm hồn Việt Nam đã hồi xứ giữa lòng dân tộc :


Vỗ cánh chim chiều vang lớp sóng
Như lòng của một kiếp ca nhân
Nước hỡi, thương loài chim lắm chứ
Ơi nhà, dìu dặt hắn du ca...

Vì thế, bài này được viết dưới tựa đề :

Phạm Duy
từ Dân Ca Kháng Chiến
đến Tổ Khúc Bầy Chim Bỏ Xứ


Khi bàn về nhạc Phạm Duy với đường hướng sáng tác từ âm hưởng dân ca, Văn Cao tỏ ý lo ngại cho cái vốn nghèo nàn của nguồn nhạc dân dã và đã cái cơ khó phát triển lên trình độ nhạc giao hưởng. Cho nên các nét nhạc thanh tú, cao sang của Văn Cao đã không hề đụng tới âm giai ngũ cung Việt Nam.

Tuy dựa vào những truyền thống về nhạc điệu, tiết điệu, lời ca của dân ca cổ nhưng Phạm Duy đã hiện đại hóa cả nét nhạc và lời ca. Nét nhạc vẫn dùng hệ thống âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nghệ thuạt '' chuyển hệ '' (métabole) để làm cho giai điệu có thể chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau. Lời ca tuy vẫn nằm trong thể thơ lục bát nhưng dùng thêm các biến thể. Do đó tiết điệu cũng theo âm tiết (prosodie) của lời ca mà được bội phần phong phú. Ví dụ :


Dân Ca Kháng Chiến


Chiều về, chiều về trên cánh đồng xanh
Có nàng gánh lúa cho anh ra đi giết thù
(Nhớ Người Thương Binh)


Ngoan ngoan con nhoẻn miệng cười
Trông con mẹ tưởng như đời nở hoa
Chinh chiến miền xa, cha con, chinh chiến miền xa...
(Ru Con)


Ai có nghe tiếng hát hành quân xa
Mà không nhớ thương người mẹ già
(Nhớ Người Ra Ði)


Hỡi cô con gái, giặt yếm bên bờ
Thuyền tôi đậu bến sông Lô
Nửa đêm nghe tiếng quân thù... thở than
(Tiếng Hát Trên Sông Lô)


Chiều ơi ! Mái nhà sàn thở khói âm u
Cô nàng về để suối tương tư, ới chiều...
(Nương Chiều)


Mẹ già tưới nước trồng rau
Nghe tin xóm làng kêu gào
Quân thù đã bắt được con
Ðem ra giữa chợ cắt đầu...
(Bà Mẹ Gio Linh)

Tình Ca


Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi ! Tiếng ru muôn đời.
(Tình Ca)


Quê hương ơi ! Bóng đa ôm đàn em bé
Nắng trưa im lìm trong lá
Những con trâu lành trên đồi
Nằm mộng gì ? Chờ nghe tôi thổi khúc sáo chơi vơi.
(Tình Hoài Hương)

Rong Ca


Trăng bao nhiêu tuổi á a, ới a trăng già
Mà sao ta thấy ý a ới a ta già, ta già như trăng
Ta già như trăng, ta già như em
Hỡi em trăng già, em vẫn sáng êm...
(Trăng Già)

Phạm Duy có hàng trăm nét nhạc, hàng ngàn lời ca xuất phát từ hồn dân tộc qua hệ thống âm giai ngũ cung truyền thống Việt Nam. Với Tổ Khúc Bầy Chim, Phạm Duy còn chứng minh được rằng nhạc ngũ cung của dân ca Việt Nam có thể thăng tiến lên trình độ nhạc giao hưởng. Các nét nhạc và lời ca trong Tổ Khúc Bầy Chim được hoài thai trong kho tàng huyền sử, điển tích và dân ca Việt Nam. Nhạc chỉ (nét nhạc chính) trong đoạn mở Chim Quyên Từ Ðộ Bỏ Thôn Ðoài và trong đoạn kết : Chim Quyên Về Ðậu Ở Thôn Ðoài đã được phát triển trong suốt tổ khúc như một cánh rừng ôm lấy ba mươi sáu thứ chim ca hát, nhẩy múa theo giọng hót riêng biệt của từng loài (hay của từng điệu dân ca) mà vẫn quyện lấy nhau, hoà âm thành một tổ khúc giao hưởng. Tổ Khúc Bầy Chim không có kịch tính như một opera của Tây Phương nhưng những '' hơi điệu '' trong tổ khúc này có tầm vóc và trình độ giao hưởng của những '' aria '' trong đại nhạc kịch cổ điển của Puccini hay Verdi. Cứ tưởng tượng nếu Luciano Pavarotti hát thay Vũ Anh :


Chim ngoan về đậu ngọn tre già
Ta và chim khâu vá đời sau
Chim và ta âu yếm gọi nhau
Ta còn nhiều phen hát tình yêu...


Rồi :


Chim hỡi chim ơi !
Chim hỡi chim ơi !
Chim hỡi chim ơi !
Chim hỡi chim ơi !

...thì khung trời nhạc giao hưởng của dân ca Phạm Duy vẫn thênh thang cho giọng tenor của danh ca Pavarotti, rộng cánh bay bổng, làm cho các cửa kính của đại nhạc viện phải rung lên cũng như làm xúc động khán thính giả đến tầng sâu thẳm nhất của tâm hồn.

Nếu Phạm Duy đi ngược thời gian một nửa thế kỷ để gặp lại Văn Cao với Ðàn Chim Việt... như lũ chim giang hồ đang còn dật dờ trên khắp cố đô, thấy lòng ngập ngừng lưu kuyến một thời xa... thì đôi mái đầu bạc phải cụm vào nhau, sung sướng rung lên vì đàn chim Việt nay đã hóa sinh :


... hồi xứ về quê cũ yêu thương
Dựng xong mùa mới rồi chim sẽ bay tung
Bay khắp dương gian trong nỗi vui chung
Ra tít không gian thăm cõi mông lung...

Lấy bầy chim làm hình ảnh ẩn dụ là tuyệt diệu. Chim Hồng, chim Lạc là những con chim huyền sử biểu tượng cho dân tộc Việt Nam, cũng như :


Ðây Bạch Ðằng Giang
Sông hùng dũng của nòi giống anh hùng
Giống Lạc Hồng, giống Tiên Rồng, Nam Bắc Trung.
(Lưu Hữu Phước)

Hình ảnh chim muông nhan nhản trên trống đồng Ðông Sơn, chứng tích của nền văn minh cổ Việt Nam:


Lặng nghe đây con chim Hồng, đây con chim Lạc !
Hỡi những cánh chim của Tiên với Rồng
Những cánh chim ẩn ngữ Ðông Sơn, hoàn mỹ âm dương...

Loài chim lại đứng hàng đầu : nhất Ðiểu, nhì Ngư, tam Xà, tứ Tượng. Gặp tiết Ðông hàn, khí trời lạnh lẽo khắc nghiệt, bầy chim dời tổ bay đi :


Trời đang rực rỡ
Chợt đâu kéo mây đen
Bầy chim buồn bã
Rủ nhau vút bay lên....

Nhưng khi Xuân về ấm áp khoan dung, bầy chim nô nức hồi cố đô, đem lúa rơm từ bốn phương về, bú mớm chim non, kiến thiết quê hương :


Chim đi rồi một buổi chim về
Cho Tình Yêu nở khắp miền quê
. . . . . . . . . . . .
Ðằm thắm, đôi bồ câu bú mớm
Ngắm chim về sưởi ấm nóc rơm
. . . . . . . . . . . .
Kết bầy, chim ủ ấp quê hương...

Lấy huyền thoại chim quyên tái sanh từ xác tro của mình -- l'oiseau renait de ses cendres làm chủ đề cho tổ khúc càng tuyệt diệu hơn nữa.

Như một thuyền nhân vượt biển :
Con chích choè vượt biển về đâu ?
Rồi chim hót, chim hót giọng sầu
Chim chúc đầu vào biển sóng nâu
Con chích choè chìm vào đêm sâu...

Như một nhân tài phải lưu vong:
Một đôi phượng quý
Than ôi ! Xù lông dưới mưa Ðông
Nhìn công thèm múa
Ơi ơ, rồi chim xuống ven sông.
Mưa vẫn lâm dâm
Chim đứng căm căm
Khi tuyết rơi tung
Chim chết trên sông...

Như một ca nhân hay như chính tác giả :


Nay hoàng khuyên không còn ai nghe hót
Chim khổ đau, cấu cổ chết không hay
Ta đứng đâu đây, đàn mốc trên tay
Nghe đất lung lay, đàn đứt tung dây...

... và tất cả như chim Quyên :


Chim Quyên phải từ bỏ quê mình
Bay về miền tuyết phủ buồn tênh
Thổ máu tươi, một đêm chim chết...

Nhưng xác chưa tan, thì...


Tái sinh thành lần nữa Ðỗ Quyên...

Tất cả đã tái sinh thành chim khóc nước ở nơi mùa Ðông vắng lạnh...


Nhớ nước nên gào lên quốc quốc
Khắc khoải lòng người sống lưu vong...

May thay, một trận bão dân chủ tự do nổi lên khắp thế giới. Bão nổi lên rồi làm bầy chim tỉnh giấc trở về làm lại một mùa Xuân thắm:


Bầy chim tỉnh giấc
Cùng nghe tiếng thiêng liêng
Từ nơi huyền bí
Nổi lên tiếng chim Tiên
Chim đã vươn lên
Như gió thiên niên
Tôi đã nghe vang
Cơn bão không gian...

Cáio triết lý '' chim phải tái sinh trên xác tro của mình, âm cực sinh dương, cái chết mở đầu cho sự sống mới '' đã trải dài trên nhiều bản nhạc của Phạm Duy.

Từ bài Lữ Hành (1953) :


Bánh xe tang ngoại ô
Chiếc nôi trong vòng hoa
. . . . . . . . .
Tà áo rách cô hàng quán
Sức tuôn trên cánh đồng
. . . . . . . . .
Máu xương chôn lấp rồi
Cỏ hoa mọc kín đồi

Trong bài Xuân Thì (1953), bên cạnh tiếng kinh cầu hồn cho người chết : Xa xa có tiếng kinh cầu, chiều trên dương thế mang sầu mênh mông... thì đã có ngay trời không mưa gió, mẹ bế con thơ, con bú say sưa.

Qua Tâm Ca (1965) :


Giọt mưa trên lá nước mắt mẹ già
Lã chã đầm đìa trên xác con lạnh giá
. . . . . . . . .
Giọt mưa trên lá tiếng khóc oa oa
Ðứa bé chào đời cho chúng ta nụ cười

Cho đến Rong Ca (1988) :


Người phu trong chiều buông
Lòng hân hoan, chôn mộ xong
Nghe mùa Xuân đang rộn rã tới gần

Phạm Duy là con người tuyệt trần thông minh, chuyên cần, dũng cảm và yêu đời. Rất bén nhậy với thời cuộc, vui với mọi hoàn cảnh, biết thoát mọi hiểm nguy, cư xử công bằng với mọi người... nhưng không để ai bắt nạt dù là bà vợ Thái Hằng hay ông chủ tịch nhà nước.

Cái lạc quan của Phạm Duy rất dễ thương và an nhiên như nụ cười của bác sĩ Zhivago lúc say sưa ngắm cảnh đồng hoa vàng nở qua gầm xe của toa tầu lưu đầy. Phạm Duy đã nhìn ra : Hoa đào đã nở trên vết mòn chiến xa (Xuân Thì, 1953) và thấy hoa hướng dương, hoa tình yêu nở rộ bên các nấm mồ :


Mai đây, nấm mồ
Một nụ vàng sẽ hé
-- Hoa ơi, tên gì ?
Có phải hoa hướng dương ?
. . . . . . . . . . . . . . . .
Ði qua nấm mồ, sẽ thấy ngọn cỏ mềm
Cho êm cõi đời, cho tình nhân ngã lên
Khi trên nấm mồ còn nở rộ bông hoa mới
-- Hoa ơi, tên gì ?
-- Hoa Tình Yêu đó em !
(Mộ Phần Thế Kỷ, 1988)

Không bao giờ Phạm Duy cho phép mình buồn bã cả, dù ở hoàn cảnh nào : Sức mấy mà buồn và nếu đôi khi phải khóc thì mép bên này chưa hết mếu, mép bên kia đã nhếch cười rồi :


.... nước mắt mẹ già
Lã chã đầm đìa trên xác con lạnh giá
... nước mắt mặn mà
Thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về

Trải qua gần nửa thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã tái sinh trên xác tro của mình bốn lần qua bốn cuộc bể dâu đổi đời. Phạm Duy cùng với cây đàn, cùng nổi trôi theo mệnh nước qua cảm xúc, phản ứng và sáng tác của mình.

Năm 1945 : Từ đống tro tàn nô lệ, vùng lên giành dộc lập, Phạm Duy viết Dân Ca Kháng Chiến để tô điểm, khích lệ và nhắc nhở nguồn gốc dân tộc.


Năm 1954 : Từ xương máu của cuộc kháng chiến, đất nước bị chia đôi...Phạm Duy viết trường ca Con Ðường Cái Quan để nối lại chiều dài của quê hương.


Trước 1975 : Từ việc quân đội và vũ khí ngoại quốc ồ ạt tràn vào làm băng hoại luân lý gia đình, cơ cấu xã hội và tinh thần dân tộc... Phạm Duy viết trường ca Mẹ Việt Nam mà chung khúc là bài Việt Nam Việt Nam để mời mọi người trở về gốc rễ công bình bác ái trong chiều sâu của một dân tộc chỉ muốn : tình yêu đây là khí giới, lửa thiêng soi toàn thế giới, Việt Nam tiếng nói đi xây tình người.


Sau 1975 : Từ sức phá hủy của một số lượng bom đạn nhiều hơn cả số lượng bom đạn của đệ nhị thế chiến cộng lại, song hành với một Việt Nam quốc nội thống nhất, một Việt Nam hải ngoại mở rộng được hình thành... Phạm Duy viết tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ bay khắp năm châu, kéo chiều rộng Việt Nam ra khắp thế giới.


Cuối thập niên 80 : Từ trận gió đổi mới (glasnost) khởi từ Nga Sô dến cơn lốc dân chủ mùa Hè Bắc Kinh, mùa Thu Berlin và mùa Ðông Ba Lan, Tiệp Khắc, Lỗ Ma Ni.... xã hội Việt Nam liệu có tái sinh với sự đổi mới về kinh tế và tư duy. Phạm Duy cho Bầy Chim Bỏ Xứ thành Bầy Chim Hồi Xứ để kiến thiết quê hương, mang lại một mùa Xuân thắm rồi chim sẽ tung bay, bay khắp dương gian, ra tít không gian... để sửa soạn dựng lên chiều cao của dân tộc.

Ngày xưa Ðức Phật nhập định dưới cõi bồ đề suốt bốn mươi chín ngày mà '' ngộ '' được cuộc đời, tìm ra lẽ đạo.


Chúa Cứu Thế, nhịn ăn bốn mươi ngày, vào nơi đồng vắng cầu nguyện, vượt qua mọi thử thách, cám dỗ của ma quỷ mà nhận được Ðức Tin thiên thượng để cứu rỗi loài người.


Dân tộc Việt Nam qua bốn cuộc bể dâu trải gần trọn một thế kỷ, vì hai chữ Tự Do, đã hi sinh xương máu quá nhiều, đã triền miên trong chiến tranh và đã đau đớn cùng cực mà con người có thể chịu đựng.


Xương tôi, tôi bắc nên cầu
Cho đàn con bước sang lầu tự do
(Hoàng Cầm - ÐÊM LIÊN HOAN)

Rồi sẽ phục sinh ở trong nước để thống nhất tổ quốc Việt Nam, thác sinh ở nước ngoài để thu nhận kiến thức nhân loại. Như thế :


Ðầu cành khô bỗng hoa nở tràn
(Hoá Sinh 1988)

Sự giác ngộ và niềm tin của dân tộc Việt Nam đã phải trả bằng một giá đắt nhất trong lịch sử loài người liệu có đủ thức tỉnh người Việt Nam trong nước và ở ngoài nước phải cùng nhau hoá sinh từ đống tro tàn nghèo khổ và thù hận thành một dân tộc Quảng Ðại Nhân Từ, Kinh Bang Tế Thế để được Giàu Mạnh, Tự Do trên một giang sơn gấm vóc, tiền rừng bạc bể, ăm ắp tình người mà hưởng những vinh quang của Bạch Ðằng Giang, Chi Lăng, Diên Hồng...

... Ngưỡi hát rong Phạm Duy, dù phải chống gậy, sẽ vẫn hứng khởi ôm cây đàn trên quốc lộ ngoạn mục xuyên Trường Sơn, viết thêm cuốn hồi ký số 5 và làm nốt bản trường ca cuối cùng để ca tụng chiều cao của tổ quốc.


Bùi Duy Tâm
viết xong ngày 22 tháng 9 năm 1990